Quỹ thời gian sẽ ngày càng thu hẹp trong khi chất lượng đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực của nước ta đang có nhiều bất cập, đòi hỏi những chiến lược để tận dụng tối đa, kịp thời "kỷ nguyên vàng" này.
Trên thế giới có nhiều nước đã từng thành công trong việc phát huy lợi thế của thời kỳ cơ cấu "dân số vàng", đem lại sự phát triển kinh tế xã hội vượt bậc. Trong đó 2 nước Nhật Bản và Hàn Quốc, có vị trí địa lý, văn hóa, con người khá giống và tương đồng với Việt Nam. Đây là những quốc gia đã tận dụng được cơ cấu dân số vàng cho phát triển khi mà dư lợi dân số đã đóng góp tới 30% cho tăng trưởng "thần kỳ" ở những quốc gia này.
Tại Việt Nam, ngay từ khi bắt đầu bước vào thời kỳ dân số vàng, nhiều chính sách đã được ban hành và thực thi để tận dụng lợi thế của thời kỳ này như: các chính sách về phát triển nguồn nhân lực và gia tăng đóng góp của lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Năng suất lao động của Việt Nam còn kém hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Ảnh: Chí Cường
Kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt trên 6%/năm trung bình trong giai đoạn 2011-2018. Nhưng Việt Nam chưa thực sự khai thác hiệu quả lợi thế của cơ cấu "dân số vàng", vẫn nằm trong nhóm nước có thu nhập trung bình thấp. Nguyên nhân là do chất lượng nguồn nhân lực cũng như năng suất lao động của Việt Nam còn hạn chế, kém hơn nhiều lần khi so với năng suất lao động của Singapore, Malaixia và chỉ bằng 1/3 năng suất lao động của Thái Lan, Trung Quốc.
TS Phạm Vũ Hoàng – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số, Bộ Y tế nhận định: Chúng ta tận dụng được nguồn lao động dồi dào nhưng chủ yếu là khai thác lao động giá rẻ và lao động giản đơn, chất lượng công việc nằm trong chuỗi giá trị thấp. Để cơ cấu "dân số vàng" thực sự tận dụng có hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội, chúng ta cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay.
Mỗi năm, nước ta có từ 1,5 - 1,6 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Tuy nhiên lực lượng này vẫn chưa tạo nên sức bật cho nền kinh tế vì 70% số người trong độ tuổi lao động vẫn là những lao động giản đơn do chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta còn hạn chế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật (trung cấp lên cao đẳng, đại học) vẫn chỉ đạt được khoảng 23%.
Sự thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch... là những thách thức không nhỏ đặt ra cho giai đoạn cơ cấu "dân số vàng".

Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật (trung cấp lên cao đẳng, đại học) vẫn chỉ khoảng 23%.Ảnh: Chí Cường
Số lượng lao động lớn hàng năm bước vào hoạt động kinh tế vừa có lợi thế cho phát triển kinh tế về mặt quy mô lao động song cũng mang theo một thách thức đó là sức ép lên đối với nền kinh tế dưới góc độ số lượng việc làm được tạo ra. Chỉ khi "khớp nối" được yếu tố cung (lao động) với cầu (việc làm) thì lúc đó sức mạnh mới được phát huy.
Chính thách thức trong "khớp nối" cung và cầu trong thị trường lao động và những hạn chế trong chất lượng, cụ thể ở đây là trình độ, kỹ năng của người lao động đã khiến cho năng suất lao động xã hội của Việt Nam thấp (năm 2018 năng suất lao động của Việt nam bằng 1/30 lần Singapore, 29% năng suất lao động của Thái lan, 13% năng suất lao động của Malaysia; 44% của năng suất lao động của Philippines), sức cạnh tranh của nền kinh tế so với các quốc gia khác bị hạn chế.
Đây là trở ngại cho sức bật của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đã phải được xác định là một trong 3 đột phá chiến lược cho phát triển ở Việt Nam hiện nay và tương lai 10 năm tới.
PGS.TS Lưu Bích Ngọc - Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, Bộ GD&ĐT cho rằng, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần thực hiện các giải pháp về giáo dục và đào tạo một cách tổng thể và hệ thống. Chất lượng nguồn nhân lực phải được xây dựng từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và tiếp theo là giáo dục thường xuyên.
Giáo dục và đào tạo cần đổi mới theo triết lý giáo dục hiện đại. Chất lượng giáo dục và đào tạo đương nhiên cần chú trọng. Chất lượng giáo dục và đào tạo có được từ đổi mới nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá, thi cử, cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị dạy học, môi trường văn hoá học đường…
Cách mạng công nghiệp 4.0 đang thể hiện sức mạnh của nó với rất nhiều cơ hội song cũng bộn bề thách thức trong mọi mặt của cuộc sống. Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo đang là chủ đề được Chính phủ bàn thảo để thực thi mà kết quả chính là giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo sẽ làm thay đổi hoàn toàn cấu trúc hệ thống, nội dung, phương pháp giáo dục.